Tiết 1, Tượng đọc hỷ kị
Tại sao là Hỷ? Thông tục nói chính là ta vui vẻ, ở phương diện bát tự mệnh lý là chỉ chỗ nhật can, chỗ can chi và thập thần hỷ dụng, hoặc nói là can chi và thập thần đối với nhật can khởi lên tác dụng tốt, cũng chính là nói đến dụng thần, cũng gọi là hỷ thần.
Tại sao là Kị? Thông tục nói chính là nói chỗ ghét ta, ở phương diện bát tự mệnh lý là chỉ là chỗ nhật can là chỗ can chi và thập thần kị, hoặc nói là can chi và thập thần đối với nhật can khởi đến tác dụng phá hoại, tức là Kị thần.
Mệnh cục thủ hỷ kị, cũng chính là thủ dụng thần và kị thần, mà ở giữa hai phái này là đối lập con có hay không có thần khác nhứ? Tôi cho rằng là có, bởi vì có chút nhắc đến ngũ hành đối với nhật can, không thể nói là dụng, cũng không thể nói là kị, mắt hoàn toàn phải xem tuế vận hành sự, thì giống như một câu ngạn ngữ : “Cây cỏ run trên tường, gió thổi đến hai bên“, bản thân không có lập trường, ta gọi là biến thần, chỗ nói biến thần chính là dễ dàng phát sinh thập thần hỷ kị biến hóa. Chỗ này mọi người đều rõ, ở trong một mệnh cục, ngoại trừ dụng thần và kị thần, còn có biến thần, mà biến thần đến là đảo phương hướng dụng thần, hay là phương kị thần, hoàn toàn xem kết quả tuế vận sinh mệnh sinh khắc chế hóa mà định, nếu như kết quả chế hóa là chỗ hỷ của nhật can, như vậy thì nó chuyển hóa thành dụng thần, là cũng như kị thần sẽ bị gặp chuyển hóa thành một loại dụng thần; nếu như kết quả chế hóa là chỗ kị của nhật can, như vậy, thì nó chuyển hóa thành kị thần, thì giống như dụng thần cũng sẽ chuyển hóa trở thành một kị thần. Có hay không có thể chuyển hóa đều là nói “Ngũ hành sinh khắc chế hóa” mà đoán.
Sau khi chúng ta đã hiểu rõ nhật can vượng suy, thì phải tìm kiếm làm cho nhật can tìm được sự cân bằng, mệnh cục lưu thông. Từ chữ Thế cường, mà chữ này chính là “Dụng thần”, nhưng nếu tìm đến chữ này, bạn tất cần phải biết đường dẫn đến mệnh cục mất cân bằng, trở ngại ùn tắc. Chữ Nghịch thế, mà chữ này chính là kị thần, sử dụng quan điểm y học mà nói, kị thần chính là bệnh của mệnh cục, dụng thần chính là dược của mệnh cục, cho nên nói phê bát tự không rõ hỷ kị là khó đi nửa bước.
Phương pháp thủ dụng cơ bản chỉ có ba loại: Tức là dụng thần cân bằng, dụng thần tòng thế, dụng thần lưu thông.
+ Dụng thần cân bằng: là chỉ một lực lượng cân bằng sinh trợ nhật can và chế hóa nhật can; hai là chỉ ra mệnh cục cân bằng hàn noãn táo thấp; ba là, mệnh cục cân bằng hai loại, ba loại, bốn loại lực lượng ngũ hành.
+ Dụng thần tòng thế: là chỉ tòng theo thế lực một phương hoặc là nhiều phương;
+ Dụng thần lưu thông: là chỉ có thể làm cho giữa ngũ hành lưu thông không có trở ngại.
Sở hữu phương pháp thủ dụng đều không thoát ra khỏi ba loại phương pháp thủ dụng cơ bản, có thể thủy chung giải thích quá trình dự trắc cân bằng, lưu thông, tòng thế nối liền ở tuế vận mệnh, là đại pháp thủ dụng căn bản.
Như vậy, hỷ kị là không vĩnh hằng bất biến chứ? Căn cứ quy luật âm dương hỗ căn, âm dương chuyển hoán, hỷ kị sẽ bởi vì tổ hợp và chế hóa mà phát sinh chuyển hoán, dụng thần biến kị thần, kị thần biến dụng thần, ví dụ như Nhật can Giáp mộc thiên vượng, dụng thần là kim thổ hỏa, kị thần là thủy mộc, vốn là gốc nguyệt can Canh kim Thất Sát chế Giáp mộc kị thần vốn là cát, nhưng can năm Bính hỏa dụng thần chế can tháng Canh kim dụng thần phát huy tác dụng phá hoại, chỗ này Bính hỏa dụng thần là không phải dụng thần, mà chuyển hóa thành kị thần; Lại như Nhật can Giáp mộc thiên nhược, dụng thần là thủy mộc, kị thần là kim thổ hỏa, nguyệt can kị thần Canh kim chế nhược thân là hung, nhưng can năm kị thần Bính hỏa khắc chế can tháng Canh kim kị thần phát huy tác dụng tốt, lúc này, chỗ Bính hỏa là do kị thần chuyển hoán thành dụng thần. Cho nên nói hỷ là không hỷ, kị là không kị, hoàn toàn xem chúng nó ở trong tổ hợp mệnh cục khác nhau phát huy tác dụng gì, chỗ này tượng hỷ kị chuyển hoán nhất định phải xem linh hoạt, phải xem phân rõ phải trái, không thể câu nệ mà nói.
Phương pháp thủ dụng Dụng thần và Kị thần
1. Phàm Nhật can thiên vượng, thông thường là thủ Quan Sát, Thực thương, Tài tinh làm dụng thần, để cân bằng bệnh nhật can thiên vượng. Còn Ấn tinh sinh trợ nhật can, Tỉ Kiếp thì là Kị thần;
2. Phàm nhật can tòng vượng, thông thường thủ Ấn tinh, Tỉ Kiếp, Thực Thương làm dụng thần, lấy thuận theo thế nhật can tòng vượng, làm cho mệnh cục can chi ngũ hành được lưu thông. Còn Quan Sát khắc hao nhật can, Tài tinh thì là kị thần, bởi vì bọn chúng làm trở ngại thế nhật can tòng vượng;
3. Phàm nhật can trung hòa, lấy đại vận và lưu niên cân bằng lưu thông để chọn lấy dụng thần và kị thần;
4. Phàm nhật can thiên nhược, thông thường thủ Ấn tinh, Tỉ Kiếp làm dụng thần, để bổ túc cái bệnh nhật can thiên nhược, làm cho lực lượng nhật can cùng lực lượng khắc tiết hao được tương đối cân bằng. Còn Quan Sát khắc tiết hao nhật can, Thực Thương, Tài tinh thì là kị thần, bởi vì chúng nó làm tăng thêm mệnh cục mất cân bằng, ở dưới tình huống đặc biệt, cũng có thể thủ Thực Thương làm dụng thần;
5. Phàm nhật can tòng nhược, thông thường thủ Quan Sát, Thực Thương, Tài tinh làm dụng thần, để thuận theo thế nhật can tòng nhược, làm cho mệnh cục can chi ngũ hành được lấy lưu thông. Còn Ấn tinh sinh trợ nhật can, Tỉ Kiếp chính là kị thần, bởi vì bọn nó làm trở ngại thế nhật can tòng nhược.
6. Phàm mệnh cục ngũ hành tương đối cân bằng, mà khí hậu thiên hàn hoặc là thiên táo, tức là hàn noãn không cân bằng, lấy điều hậu ngũ hành làm dụng thần, tức là mệnh cục hàn lạnh, thủ Dần, Mão, Tị, Ngọ, Mùi, Tuất là dụng thần điều hậu; mệnh cục táo noãn, thủ Thân, Dậu, Hợi, Tý, Sửu, Thìn là dụng thần điều hậu, thông qua điều hậu, làm cho mệnh cục đạt đến được hàn noãn, tức là trạng thái cân bằng hàn noãn, dạng mệnh cục này thì sẽ có sức sống mạnh mẽ.
Chúng ta ở trong quá trình phân tích phán đoán thì sẽ bổ sung lợi dụng tượng nhật can hỷ kị để đọc kết quả trự diện đối với con người sự vật, quá trình đọc phải chú ý tổ hợp hỷ kị thần, vượng suy mà định, cụ thể phép đọc như sau:
1. Nếu như tượng Tỉ Kiếp là hỷ mà vượng tướng, không có chế hoặc Tỉ Kiếp là kị, suy nhược còn bị chế, thì căn cứ loại tượng Tỉ Kiếp là tốt, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có quan hệ với mọi người tốt, có thể được anh em chị em bạn bè thân hữu giúp đỡ tốt, tài vận tốt, sự nghiệp thuận lợi, sự nghiệp tài vận nhiều thành công, được sự trợ giúp của bạn bè người thân; nếu như tượng Tỉ Kiếp là hỷ mà suy nhược bị chế hoặc là tượng Tỉ Kiếp kị mà vượng tướng không có chế, thì căn cứ loại tượng Tỉ Kiếp là phá hoại, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có nhân duyên là khá xấu, thì không thể được anh chị em, người thân bạn bè trợ giúp tốt, sự nghiệp tài vận bị cản trở, sự nghiệp tài vận không thể thành công được sự giúp đỡ của người thân và bạn bè, trái lại còn bị liên lụy bởi người thân và bạn bè, là chỗ có hại, nếu như tuế vận có trợ giúp thành công, như vậy mệnh chủ chính là người tay trắng lập nghiệp, phàm việc được dựa vào bản thân nắm chắc mới có thể thành công. Mặt khác có liên quan đến tin tức loại tượng Tỉ Kiếp, thì căn cứ hỷ kị dựa vào chỗ này mà loại suy.
2. Nếu như Thực Thương là hỷ, vượng tướng mà không có chế hoặc tượng Thực Thương là kị mà suy nhược bị chế, thì căn cứ Thực Thương là loại tượng tốt, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có bộ óc linh hoạt, miệng lưỡi tốt, tài vận tốt, con cái đắc lực, có tài năng …; nếu như Thực Thương là hỷ, suy nhược mà còn bị chế hoặc Thực Thương tượng là kị, vượng tướng mà không có chế, thì căn cứ Thực Thương loại tượng là phá hoại, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ là không có thông minh, hay lỡ lời nói nhiều, liên tục không nghĩ, tài vận không tốt, con cái không đắc lực, thân thể mệnh chủ không tốt, đa số là hệ thống tiêu hóa hoặc là bệnh tinh thần, ví dụ như thần kinh suy nhược chẳng hạn. Mặt khác, có liên quan tin tức loại tượng Thực Thương, thì căn cứ hỷ kị dựa theo chỗ này mà loại suy.
3. Nếu như tượng Tài tinh là hỷ, vượng tướng mà không có chế hoặc Tài tinh là kị, suy nhược mà bị chế, lại thì căn cứ Tài tinh là loại tượng tốt, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có tài vận tốt, có thể được lực của phụ thân, nam mệnh có thể được vợ trợ giúp, có duyên tốt với người khác phái, đa tình, Thiên Tài là trọng nhiều tình cảm, lãng mạn, Chính Tài là trọng nhiều nhục thể, thực tế …; nếu như tượng Tài tinh là hỷ, mà suy nhược bị chế hoặc Tài tinh là kị, vượng tướng mà không có chế, thì căn cứ loại tượng Tài tinh là phá hoại, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có tài vận không tốt, không thể được lực của phụ thân, nam mệnh thì không thể được sự trợ giúp của vợ, hoặc là cha và vợ có vận khí không tốt, thân thể không tốt, cha sẽ chết sớm, hôn nhân không tốt ….. Ngoài ra còn có liên quan đến tin tức loại tượng Tài tinh, thì căn cứ hỷ kị dựa vào chỗ này mà loại suy.
4. Nếu như tượng Quan Sát là hỷ, vượng tướng không có chế hoặc là Quan Sát là kị, suy nhược bị chế, thì căn cứ Quan Sát là loại tượng tốt, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có sự nghiệp thuận lợi, là người có làm quan hoặc là người làm ông chủ; nếu như tượng Quan Sát là hỷ, suy nhược còn bị chế hoặc Quan Sát là kị, vượng tướng mà không có chế, thì căn cứ Quan Sát gặp tượng phá hoại, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có vận khí sự nghiệp không tốt, không phải mệnh làm quan, dễ phạm quan tụng… Ngoài ra còn có liên quan tin tức đến loại tượng Quan Sát, thì căn cứ hỷ kị mà dựa theo chỗ này loại suy.
5. Nếu như tượng Ấn tinh là hỷ, vượng tướng không có chế hoặc Ấn tinh là kị, suy nhược mà còn bị chế, thì căn cứ Ấn tinh là loại tượng tốt, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có học nghiệp tốt, văn bằng cao, sự nghiệp thuận lợi, có nắm chức quyền, có được trưởng bối quan tâm, mẹ có tài năng; nếu như tượng Ấn tinh là hỷ mà suy nhược bị chế hoặc là Ấn tinh là kị mà vượng tướng không có chế, thì căn cứ Ấn tinh là gặp loại tượng phá hoại, thì có thể đọc trực tiếp mệnh chủ có học nghiệp bị cản trở, văn bằng không cao, sự nghiệp không thuận lợi, không thể được trưởng bối quan tâm, mẹ không có tài năng hoặc là thân thể không tốt …. Ngoài ra, còn có liên quan đến tin tức Ấn tinh thì căn cứ loại tượng là hỷ kị mà loại suy.
Ví dụ Nam mệnh:
Thất Sát | Thương quan | Nhật can | Kiếp tài |
Bính Thìn | Quý Tị | Canh Thìn | Tân Tị |
Nhật can Canh kim, sinh vào tháng Tị là xứ tử địa, có 5 thành độ nhược, can tháng Quý thủy tiết thân vô lực, lại không thể trực tiếp khắc chế ngũ hành nhật can, nhật can tọa dưới Thìn thổ sinh thân, chi năm Thìn thổ và chi ngày Thìn thổ phối hợp nhau chặt chẽ, Thìn thổ sinh thân có lực, can giờ Tân kim tuy tọa dưới tiệt cước, nhưng Tị hỏa tiệt cước bị Thìn thổ làm mờ, Tân kim hơi có lực trợ thân, mà Thìn thổ, Tân kim đều gần thân. Lại xem Quan tinh Tị hỏa, Bính hỏa, Tị hỏa tuy nắm lệnh, nhưng bị Thìn thổ làm hóa mờ tối, lực khắc thân giảm; Bính hỏa bị tọa dưới Thìn thổ làm mờ, bị Quý thủy chế, lại cách xa nhật can, không phát huy tác dụng khắc chế nhật can, vừa nhìn như vậy, mệnh này lực lượng ngũ hành sinh trợ và khắc hao là tương đương, nhật can Canh kim trung hòa, bát tự trung hòa, Ấn Tỉ gận thân là một loại tượng tổ hợp tốt, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ là mệnh tốt. Ấn tinh là hỷ kề thân sinh trợ, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ là có văn bằng. Bát tự trung hòa hỷ Thiên Tài, bát tự không thấy Thiên Tài, Thiên Tài đại biểu là cha, chiếu tượng đọc trực tiếp là vô duyên đối với cha. Bát tự trung hòa hỷ Chính Ấn, bát tự không thấy Chính Ấn, nhưng có Thiên Ấn Thìn thổ, chiếu tượng đọc trực tiếp mà mẹ bất lợi, nhưng mẽ so với cha là khá trường thọ, hoặc là đọc trực tiếp mệnh có cha chết trước mẹ. Thực tế người này cả hai cha mẹ đều đã mất. Còn có tin tức khác khắc mẹ, mọi người thữ nghĩ là tại sao? Ở phía dưới tôi có bài ” Phân tích Lục thân ” sẽ giải thích tường tận.
Nam mệnh:
Tỉ kiên | Thiên Tài | Nhật can | Tỉ kiên |
Mậu Ngọ | Nhâm Tuất | Mậu Ngọ | Mậu Ngọ |
Nhật can Mậu thổ sinh tháng Tuất là tháng Tỉ kiên trợ thân, có 5 thành độ vượng, địa chi năm, ngày, giờ thấy 3 Dương Nhận Ấn tinh Ngọ hỏa, năm giờ Tỉ kiên Mậu thổ có lực trợ thân, dù can tháng Nhâm thủy Tài tinh tiết hao thân, nhưng Tài tinh Nhâm thủy vô căn không có gốc, không thể cản trở thế hỏa thổ cường vượng, nhật can Mậu thổ phải tòng vượng, dụng thần là hỏa thổ, kị thần là kim thủy, mộc là biến thần. Nhật can tòng vượng, hỷ Ấn tọa Ấn, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ có bản khoa ở trên văn hóa; tòng vượng kị Tài tinh làm hao thân, Tài tinh bị chế là đại cát, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ là mệnh phú quý. Thực tế người này bát tự có hai người, một là tốt nghiệp bản khoa, trước mắt là ông chủ, mở ba công ty thông tấn interneti. Một là trước mắt là sinh viên tốt nghiệp Thạc sĩ.
Nữ mệnh
Kiếp tài | Chính Tài | Nhật can | Tỉ kiên |
Ất Dậu | Kỷ Mão | Giáp Ngọ | Giáp Tý |
Mệnh này nhật can Giáp mộc sinh tháng Mão nắm lệnh, lại được trụ giờ Giáp Tý trợ giúp, nhật can thiên vượng, hỷ Quan tinh khắc chế thân vượng, nhưng Quan tinh xa cách, lại bị chi tháng Mão mộc xung thương, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ có hôn nhân bất thuận, không chết cũng chia tay. Thân vượng hỷ Thương quan Ngọ hỏa tiết thân, Thương quan Ngọ hỏa được nguyệt lệnh vượng tướng, đọc trực tiếp con cái có tiền đồ, nhưng trụ giờ là kị, chi giờ lại xung khắc Ngọ hỏa dụng thần, chiếu tượng đọc trực tiếp mệnh chủ không được con cái quan tâm ưu ái, cả đời gian lao khổ cực, phàm việc chỉ dựa vào bản thân. Thực tế mệnh chủ đã có một người chồng chết, ly hôn một chồng, trước mắt cô ta là đơn thân độc mã, sống bằng nghề bán nước uống, đứa con gái lúc trẻ đi làm vườn, đứa con trai dạy học ở nông thôn, cho nên con cái sau khi kết hôn, con rễ và con dâu quấy phá, đều không thể chiếu cố đến cô ta.