THỂ DỤNG : NHẬT CHỦ DỤNG THẦN
Nguyên văn :
Đạo hữu thể dụng , bất khả dĩ nhất đoạn luận dã , yếu tại phù chi ức chi đắc kỳ nghi .
Nguyên chú : Có cái lấy nhật chủ là thể , đề cương là dụng . Nhật chủ vượng , tức đề cương , thực thần , thương quan đều là cái ta dụng . Nhật chủ nhược , tức đề cương có vật , giúp thân để chế thần đó , cũng là cái ta dụng . Đề cương là thế , hỷ thần là dụng , nhật chủ không thể dụng ở đề cương . Đề cương , thực , thương , tài , quan quá cượng , tức là chọn ấn , tỷ năm , tháng , giờ là hỷ thần ; đề cương , ấn , tỷ quá vượng , tức chọn thực , thương , tài , quan ở năm , tháng , giờ là hỷ thần mà dụng . Hai cái này , đều là chính pháp của thể dụng .
Có cái lấy tứ trụ là thế , ám thần là dụng ; tất tứ trụ đều không có gì có thể dụng , mới chọn thân ám cung ám hợp ; có cái lấy tứ trụ là thể , hóa thần là dụng . Tứ trụ có hợp thần , không có dụng thần , tức là lấy tứ trụ là thể , mà lấy thân hóa hợp có thể dụng làm dụng . Có cái lấy hóa thần làm thể , tứ trụ là dụng , là chân hóa , tức là lấy hóa thân là thể lấy cái tương sinh tương khắc với hóa thân trong tứ trụ làm dụng . cái lấy tứ trụ làm thế , tuế , vận làm dụng ; tứ trụ thái quá , bất cập , dụng tuế , vận cản nhắc hỗ trợ cho . Có cái lấy hỷ thần là thể , thần phụ cho thân là dụng , nhưng thân mà nó hỷ thì lại không thể tự dụng , tức là lấy làm thế , mà dung thân phụ hý . Có cái lấy cách tương làm thể nhật chủ làm dụng , cần cách cục , khí tượng , cùng ám thần , hóa thân , ky thần khắc thần , đều thành một thế để đoán .
Như một mặt là cách tượng , cùng với nhật chủ không có quan hệ , hoặc thương khắc nhật chủ thái quá , hoặc giúp nhật chủ thái quá , ở giữa cần tìm thể dụng phân biện , lại không có hình dáng , chỉ được dụng nhật chủ tự đi dân sinh hỷ thần , không cầu đường sống khác làm dụng . Có cái lấy nhật chủ là dụng , có dụng quá hơn thế . Như dụng thực , tài , mà tài quan , thực thần tận hành ẩn phục , cùng quá phát lộ phù phiếm , tuy mỹ nhưng là quá độ . Có cái dụng chủ mà thể hành , có thể lập mà dụng hành , là lý chính thể dụng . Như dụng thần không hành đất lưu hành , mà lại hành ở tài vận tài trợ cho thể là không tốt . Có thể dụng , thể dụng đều lượng , không phân thắng thua , hành vận lại không có nặng , nhẹ , trên , dưới , tức là giác lập , Có thể dùng đều trì trệ , như Mộc Hỏa đều Dương , không gặp Kim , Thổ là có trì trệ , không thể đoán định . Mà dụng thể dụng , khác với dụng dụng thần , nếu lấy dụng của thể dụng là dụng thân thì cố nhiên không thể là cầu dụng thần mà không được , chỉ còn cách cẩn thận thể dụng chính xác . Mà chọn cẩn yếu đó là dụng thần , mà hai , ba , bốn , năm chỗ dụng thần , không phải là mệnh tốt , cần ức dương nặng nhẹ đó , chớ có làm thành hữu dư , bất túc .
Nhâm Thi viết : Thể là hình tượng khí cục ; nếu không có hình tượng khí cục , tức là lấy nhật chủ thể . Dụng , là dụng thần , không phải ngoài thể dụng không còn có dụng thần . Nguyên chú nói thể dụng và dụng thần có sự khác biệt , lại không ghi rõ nên vẫn chỉ là mơ hồ , có thể biết ngoại trừ thể dụng ra , không thể cầu dụng thần . Phần nguyên văn có câu “ cần phù , ức , đắc sao cho hợp ” , có thể thấy rõ là dụng của thể dụng , tức là dụng thần không còn nghi ngờ gì . Vượng thì cần ức , nhược cần phù , tuy là phép bất dịch , nhưng trong bất dịch lại có biến dịch , chỉ xem ba chữ “ đắc kỳ nghi ” . Vượng cần ức , nếu không thể ức , ngược lại hợp với pht , Nước cần phà , nếu không thể phủ , ngược lại cần ức . Đây là chân cơ của mình , là diệu dụng trong ngũ hành điên đảo ( đảo ngược ) , Vượng các cao tức tức phản lại mà có hại , tức là hợp tòng theo cường , là phù , Nhược : cực cần phà , phá vất vả mà cô công , là hợp với mức theo thế nhược đó , không thể nhật nhất luận như nhau .
Như nhật chủ vượng , đề cương hoặc quan hoặc tài hoặc thực , thương đều có thể là dạng : nhật chủ say , chở có tìm can chỉ khác trong từ tra gắp thân là dạng . Đề cương là độc nhấn , tức là lấy đề cương là thể đem đại thể của nó , lấy can chi của tứ trụ , thực thân , tài , quan , tìm nơi đắc mà làm dụng .
Nếu can chi trong tứ trụ , tài , sát quá vượng , nhật chủ trong lượng biên nhược , cần tìm giúp thân chế hoả tài , sát là dụng . Nhật chỉ là thể nhật chủ vượng , an thụ nhiều , tất cần tài tình là dụng . Nhật chủ vượng , quan sát nhẹ , tức là có thể lây tài tình làm dụng . Nhật chủ vượng , tỷ kiếp nhiều , mà không có tài tình , đây thực thương làm dụng . Nhật chủ lượng , ty kiếp nhiêu , mà ít tài tình , là lấy thực thương làm dụng . Nhật chủ vượng , quan tình ít , ẩn thụ nhiều , lấy tài tình làm dụng . Nhật chủ nhược , quan sát lượng , lây án thụ làm dụng . Nhật chủ nhược , thực thương nhiều , cũng lây ấn thụ làm dụng . Nhật chủ nhược , tài tình vượng , lây tỷ kiếp làm dụng . Nhật chủ và quan sát lương đình , là lấy thực thương làm dụng . Nhật chủ và tài tình đều địch , lấy ấn , tỷ làm dụng . Đó đều là dụng thần đích đáng .
Nếu nhật chủ không có năng lực , hợp với can khác mà hóa , là chân hóa , thì hóa thân là thể Hóa thân hữu dư , là cây thân thiết hóa thân làm dụng . Hóa thân không đủ , dây thần sinh trợ hóa thân làm dụng .
Phương cục ngã cách Khúc trực : nhật nguyên là nguyên thần , tức lấy cách tượng làm thể lây sinh trợ khí tượng là dụng , hoặc lấy thực thương là dụng , hoặc lấy tài tình là dụng , chỉ không thích hợp dụng quan sát . Nên quan sát khí thế toàn cục , ý tưởng để dụng , không nên máy móc .
Nếu không có cách không có cục , tứ trụ lại không có dụng thần có thể chọn , hoặc dù có thể chọn , hoặc nhàn thân hợp mất , hoặc bị xung thần tổn thương , hoặc bị ky thần chiếm cứ , hoặc bị khách thần ngăn trở , không những dụng thần không thể lo cho nhật chủ , mà nhật chủ cũng không thể lo cho dụng thần . Nếu được tuế cận phả hợp thần đó , hợp mất xung thần đó , chế cướp chiếm thần đó , thông suốt trở ngại , đó đều là tuế cân an thuận , tùy theo tuế vận chọn dụng , không mất đã là tốt lành rồi .
Nguyên chú biết : “mà hai , ba , bốn , năm chỗ dụng thần , không phải là mệnh tốt ” là sai lầm lớn , Chỉ có tám chữ , luôn có bốn , năm chữ làm dụng thần , tức là trừ bỏ nhật can ra , chỉ còn hai chữ thông dụng , không có lý này . Luôn là có dụng thông dụng , đình có một chỗ , xác thực bất dịch . Trong mệnh chỉ có hai chữ hỷ , dụng , dụng thần , là cái nhật chủ hỷ , luôn ỷ lại vào thân này ; trừ dụng thần , hỷ thần , kỵ thân ra , đều là nhàn thần , thách thần , học giả cần nghiên cứu quan sát cẩn thận . Phàm thiên can tác dụng , sinh là sinh , khắc là khắc , hợp là hợp , dễ chọn ; còn địa chỉ tác dụng , thì lại vô vàn khác biệt , nên thiên can dễ , mà địa chi thì khó .
Giải nghĩa:
Trọng điểm của phần nguyên văn “ Đạo hữu thể dụng , bất khả di nhất đoạn luận dã , yếu tại phù chi ức chi đắc kỳ nghỉ chính là ở “ thể dụng . Lại xem phần nguyên chú và bình chú của Nhâm Thiết Tiều , chúng ta biết nội dung chủ yếu được nói đến trong phần nàylà phương pháp xác định thể dụng .
Về thể dụng , các sách mệnh học rất ít sách có phần bàn luận riêng biệt , độc lập mà xác thực , nên so sánh với các khái niệm khác , “ thể dụng rất mơ hồ . Từ Lạc Ngô trong “ Trích Thiên Tủy Bổ Chứ ” đối với thể dụng đã dứt khoát cho rằng hai chữ thể , dụng , khiến người người hỗn loạn . Từ các sách mệnh , chưa từng có thêm biện giải . Như nói “ dụng tài sinh quan , lấy thực chế sát ” , cuối cùng là tài sinh quan , tài là dụng , hay ức quan là dụng ? Thực thần chế sát , thực là dụng , hay ức sát là | dụng ? Đây đều là không phân biệt rõ ràng thể dụng . “ Tử Bình Chân Thuyên ” viết : “ dụng thần chuyên cầu ở nguyệt lệnh , tất có cách cục . Cách cục , là thể ” , đây là nhầm thể là dụng . Lấy thể là dụng , dụng thần thật sự không đặt tên , gọi là tướng thần ” . Chúng ta có thể thấy , Từ Lạc Ngô đã chỉ ra rất rõ rằng cách cục không phải là thế dụng .